This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2000

Yếu tố gen trong ung thư buồng trứng

(Lâm Thị Thành - Long An)

Tần suất bị ung thư buồng trứng (UTBT) tăng lên theo tuổi. Ở phụ nữ trong độ tuổi từ 50 - 75 thì tần suất hàng năm là 50/100.000 người (xấp xỉ hai lần tần suất tại người trẻ hơn). Ở người trẻ thì tần suất ung thư liên quan tới đột biến gen sẽ nhiều hơn và chẩn đoán trễ.

Yếu tố gen trong ung thư buồng trứng

Việc xác định người nào có nguy cơ cao bị UTBT là vô cùng quan trọng vì lúc đó sẽ chọn lựa được nhóm người có giá trị trong chiến lược tầm soát bệnh. Cho tới hiện tại thì một số lượng lớn các yếu tố nguy cơ gây bệnh đã được xác định, trong đó có yếu tố về gen. Nguy cơ UTBT được biết chắc chắn nhất hiện tại là tiền sử gia đình, yếu tố này hiện diện ở 10 - 15% phụ nữ bị bệnh UTBT. Một phụ nữ có một hoặc nhiều thành viên trong gia đình bị UTBT thì phải phân biệt hai yếu tố: UTBT liên quan tiền sử gia đình hay hội chứng UTBT gia đình (hiếm gặp). Theo phân tích thống kê, những phụ nữ thế hệ thứ nhất hoặc thứ hai trong mối liên lạc với người UTBT sẽ có nguy cơ mắc bệnh cao hơn, tỉ lệ mắc bệnh khi người phụ nữ được 35 tuổi là 1,6 - 5% tại kiểu UTBT liên quan tiền sử gia đình. Ngược lại đối với hội chứng UTBT gia đình (di truyền) thì nguy cơ mắc bệnh rất cao (khoảng 50%).

Hội chứng UTBT gia đình không thuờng gặp, ước tính khoảng 5 - 10% các trường hợp. Hội chứng này bao gồm: hội chứng UTBT - tuyến vú, hội chứng Lynch II, nó liên quan đến các ung thư đại tràng, vú, tử cung và UTBT với ung thư đại trực tràng không do polyp (di truyền). Hội chứng di truyền thường gặp nhất chính là hội chứng UTBT - tuyến vú. Phần to các gia đình này có đột biến gen BRCA1 & BRCA2. Tần suất mang đột biến gen BRCA không như nhau giữa các dân tộc. Dạng này hay gặp tại tuổi rất trẻ (dưới 50 tuổi) và diễn ra tại nhiều thành viên gia đình (từ hai - 4 thế hệ).

BS.CKII. ĐẶNG MINH TRÍ

Béo phì làm tăng nguy cơ hen, dị ứng ở các bé gái

Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu lại phát hiện ra điều ngược lại ở các bé trai béo phì. So với những bé trai có cân nặng bình thường, những bé trai béo phì giảm nhẹ nguy cơ bị hen, dị ứng thực phẩm và eczema.

Các nhà nghiên cứu ở Trung tâm y khoa SUNY Downstate tại New York đã xem xét 113 trẻ (45% là nữ và 55% là nam), khoảng ¼ trong số đó bị béo phì. Tất cả những trẻ này đều sống ở New York, độ tuổi từ 8 – 9.

Nhóm nghiên cứu xem xét tiền sử sức khỏe để đánh mức chi phí một loạt tình trạng dị ứng, bao gồm hen, dị ứng thực phẩm, dị ứng theo mùa và/hoặc eczema. Trẻ được chia theo điểm số dị ứng, những trẻ gặp càng nhiều tình trạng dị ứng điểm số càng cao. Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng, các bé gái béo phì có điểm số dị ứng cao hơn so với những bé gái có cân nặng thông thường (4 so với 2,6). Ngược lại, những bé trai béo phì lại có điểm số dị ứng thấp hơn một chút so với những bé có cân nặng thông thường (3 so với 3,4).

Các nhà nghiên cứu kém chất lượng thuyết rằng, những khác biệt vào hormone có thể khiến các bé gái dễ bị dị ứng hơn. Tuy nhiên, nghiên cứu này chỉ cho thấy mối liên quan chứ không chứng minh béo phì trực tiếp gây dị ứng và cần nghiên cứu thêm để làm rõ mối liên quan này.

Nghiên cứu được thể hiện tại hội nghị thường niên của Học viện dị ứng, hen và miễn dịch Hoa Kỳ. Nghiên cứu được trình bày ở hội nghị khoa học nên được xem là sơ bộ cho đến lúc được đăng trên tạp chí có bình duyệt.

BS P.Liên

(Theo Healthday)

Bệnh tay chân miệng lây qua đường nước bọt

Câu hỏi:Chào Bác sĩ! Tôi năm nay 28 tuổi. Xin hỏi nếu như tôi mắc bệnh chân tay miệng lúc cho con bú có ảnh hưởng đến con không Bác sĩ?

Trả lời:

Trong thời điểm giao mùa hiện nay, bệnh tay chân miệng đang có nguy cơ bùng phát trở lại. Rất nhiều phụ nữ đang nuôi con bằng sữa mẹ mắc bệnh rất lo sợ sẽ truyền bệnh cho con.

Về vấn đề này,ThS. Nguyễn Kiên Cường - Viện Y học dự bộ phận Quân đội, cho biết:

Bệnh chân tay miệng lây truyền từ người này sang người khác thông qua tiếp xúc với dịch tiết nước bọt, đờm, dịch mũi họng, dịch tiết từ nốt phổng bị vỡ ra, hoặc qua phân của người bệnh. Bệnh không lây qua sữa mẹ; bởi vậy khi bú sữa mẹ, trẻ sẽ không có nguy cơ bị lây bệnh.

Tuy nhiên trong quá trình tiếp xúc sắp với mẹ, bé có thể bị lây nhiễm bệnh từ mẹ qua các đường trên. Vì vậy, người mẹ mắc bệnh cần đeo khẩu trang khi tiếp xúc với bé, rửa tay thường xuyên bằng xà phòng, tránh việc tiếp xúc sắp gũi với con như ôm, hôn. Thời gian lây truyền từ trước khi xuất hiện nốt phỏng hai ngày cho đến lúc nốt phỏng đã liền và bong vảy.

Như vậy, việc cách ly giữa mẹ và bé là biện pháp bộ phận bệnh hiệu quả nhất.

ThS. Nguyễn Kiên Cường

Những điều cần biết về u xơ tử cung

1. U xơ tử cung rất phổ biến

Một nghiên cứu cho thấy khoảng 70-80% phụ nữ bị khối u này khi tới độ tuổi 50. Tuổi dễ mắc bệnh nhất là 40-50 tuổi.

2. U xơ tử cung không phải là ung thư

U xơ tử cung là khối u lành tính, không phải là ung thư, nhưng u xơ tử cung có thể có những triệu chứng như vậy 1 dạng ung thư hiếm gặp gọi là sarcoma tử cung. Không may là các nhà khoa học chưa có cách nào tin cậy để phát hiện sarcoma, trừ khi họ thực hiện phẫu thuật để cắt bỏ khối u xơ. Nếu bạn bị u xơ, bác sĩ sẽ xem xét nguy cơ sarcoma tử cung của bạn.

3. Những người có nguy cơ

Những phụ nữ gốc Mỹ-Phi có nguy cơ cao hơn bị u xơ tử cung. Thực vậy, họ dễ bị u xơ tử cung gấp 2-3 lần. U xơ tử cung này cũng có thể xảy ra khi tuổi trẻ hơn, khối u to hơn và gây ra những triệu chứng nghiêm trọng hơn. Bạn cũng có thể bị nâng cao nguy cơ u xơ tử cung nếu chưa từng mang thai, bị thừa cân nhiều, hoặc có người thân bị u xơ.

4. Nhiều người không có triệu chứng và Không nhất thiết điều trị

U xơ tử cung chỉ cần điều trị khi nó gây ra các triệu chứng – và phần lớn phụ nữ bị u xơ không có triệu chứng. Nếu có các triệu chứng liên quan, có thể không nhất thiết phải điều trị theo cách nào khác ngoài việc theo dõi trên lâm sàng nếu thấy có nguy cơ sarcoma.

5. U xơ là nguyên do hàng đầu khiến phải cắt tử cung

Có hơn 200.000 ca phẫu thuật cắt tử cung được thực hiện mỗi năm tại Mỹ vì u xơ tử cung. Ngoài việc khiến người bệnh không còn khả năng sinh nở, bản thân thủ thuật này cũng mang tới nhiều nguy cơ. Vì vậy, các bác sĩ chỉ chỉ định phẫu thuật khi u xơ gây đau nhiều hoặc không đáp ứng với các phương pháp khác.

6. Cắt tử cung không phải lựa chọn duy nhất

Hiện nay có 1 số phương pháp điều trị có thể được sử dụng để làm teo hoặc làm chậm sự phát hiển của khối u xơ, bào gồm điều trị hormon, liệu pháp siêu âm hoặc bóc u xơ. Nếu u xơ tử cung không cần thiết cắt bỏ, có những phương pháp khác có thể giúp xử lý các triệu chứng như ibuprofen, thuốc tránh thai hoặc đốt (một thủ thuật dùng sóng cao tần để phá hủy)

7. Triệu chứng hay gặp nhất là kinh nguyệt nhiều

Khi bị u xơ tử cung, bạn có thể bị ra máu nhiều trong kỳ kinh, thậm chí có thể có các cục máu đông. U xơ cũng có thể gây chảy máu giữa kỳ kinh, buồn tiểu thường xuyên, co thắt vùng chậu, chướng bụng, đau khi giao hợp.

8.Gây khó mang thai

Phần lớn phụ nữ bị u xơ vẫn mang thai tự nhiên nhưng có thể gặp các biến chứng. Nghiên cứu cho thấy 1 số loại u xơ tử cung có thể làm đánh tráo kích thước và hình dạng của tử cung, ảnh hưởng đến khả năng mang thai của phụ nữ, mặc dù các chuyên gia ước tính u xơ chỉ gây vô sinh cho 1-2 % các trường hợp.

U xơ cũng có liên quan tới nguy cơ phải sinh mổ cao hơn gấp 6 lần và nguy cơ băng huyết sau đẻ.

9. Hiện vẫn chưa rõ nguyên nhân

Nguyên nhân chính xác của những đột biến gây u xơ tử cung vẫn chưa được làm rõ. Nghiên cứu bây giờ thiên về những tác động của các hormon như estrogen và progesteron, vì vậy, khối u hiếm khi có hiện tượng trước khi có kì kinh nguyệt đầu tiên và giảm sau khi mãn kinh. Stress, chính sách ăn và các nhân tố môi trường cũng có thể đóng vai trò cần yếu trong phát triển u xơ.

BS Cẩm Tú

(Theo WHM/ Univadis)

Nước dừa: Rất tốt cho trẻ nhỏ

Dừa được trồng rất nhiều ở các nước nhiệt đới và được xem là một loại cây cho giá trị cao. Nước dừa hay nước dừa non thường có trong các quả dừa non, hoặc còn xanh và trẻ nhỏ thường rất thích uống bởi vị ngọt, mát.

 

Nước dừa là một trong những nguồn giàu chất điện phân. Nó cũng chứa nhiều clorua, kali, magiê và 1 lượng đường, natri và protein vừa phải. Nước dừa cũng là nguồn mang đến chất xơ, mangan, canxi, riboflavin và vitamin C.

Nước dừa được xem là rất tốt với những người bị kiệt sức bởi nó giúp cơ thể bổ sung lượng muối đã bị mất trong cơ thể. Đối với trẻ nhỏ, nước dừa giúp ngăn ngừa tình trạng khử nước khi trẻ bị tiêu chảy.

Vào những tháng mùa hè nóng bức, lúc bé yêu của bạn (dưới3 tuổi) khát, nước dừa sẽ tốt cho trẻ hơn là các loại nước quả và các loại nước có ga. Nó vô hại vì thế tốt cho trẻ nhỏ trong những chuyến du lịch, nơi mà bạn thường lo lắng vào sự ô nhiễm nguồn nước.

Nước dừa cũng là thuốc lợi tiểu tự nhiên và vì thế có tác dụng bài tiết nước tiểu nhanh hơn. Nó cũng giúp ngăn ngừa tình trạng nhiễm trùng đường tiểu và chứng phong hàn.

 Nước dừa được xem là loại nước bổ dưỡng và nhất là phù hợp với trẻ nhỏ tại mọi độ tuổi 
Nước dừa cũng giúp giảm táo bón, cải thiện chức năng đường ruột và tăng cường chức năng tiêu hóa. Nó cũng tốt cho trẻ sơ sinh, những trẻ có khiếu nại về đường ruột.

Nước dừa rất giàu axit lauric (một loại axít béo được tìm thấy dưới dạng glyxêrin trong 1 số chất béo tự nhiên, nhất là là trong dừa và nhân của cọ), một hợp chất mà cơ thể thường dùng để tổng hợp ra monolaurin- 1 kháng sinh tự nhiên. Trẻ sơ sinh được cung cấp các kháng thể này qua sữa mẹ và vì thế nước dừa cũng rất tốt cho các bà mẹ đang cho con bú. Axit lauric có khả năng kháng nấm, kháng khuẩn, bảo vệ trẻ khỏi các bệnh truyền nhiễm khác.

Với toàn bộ những điều hoàn hảo trên, nước dừa được xem là loại nước bổ dưỡng và nhất là phù hợp với trẻ nhỏ ở mọi độ tuổi.

TheoNhân Hà dantri.gif

10 `bí kíp` khi con chuẩn bị thi đại học

Nguyễn Thu Thủy

Sau 12 năm đèn sách miệt mài, đây là thời gian các em học sinh bước về ôn luyện bận rộn nhất, chuẩn bị cho kỳ thi đại học. Phụ huynh chúng ta có thể làm 1 số việc giúp con em mình bảo đảm chất lượng ôn tập trước khi thi và ổn định tâm trạng trong khi thi.

1 Trước tiên, tinh thần của cha mẹ phải ổn định trước, như thế sẽ làm cho con mình thi cử với tâm trạng ổn định. Trong thời gian con mình ôn tập chuẩn bị cho kỳ thi, phụ huynh cần loại bỏ những ảnh hưởng tới từ bên ngoài, bảo đảm luôn ở trong trạng thái hòa nhã, điều đó có tác dụng lớn đến chất lượng ôn tập của con em mình.

2 Cần phải luôn vui vẻ, có một số phụ huynh sợ con thi không được tốt nên lo lắng, buồn, ít nói, như thế con sẽ biết cha mẹ còn hồi hộp hơn mình. Phải tạo bầu không khí gia đình đầm ấm, hòa thuận. Sức mạnh tình cảm là hết sức lớn lớn, bầu không khí đầm ấm sẽ làm tiêu tan sự lo âu, buồn phiền và nóng vội, giúp các em điều chỉnh vào tinh thần, tăng chất lượng ôn tập.

3 Khuyên con nỗ lự hết sức mình. Thường thì đa số phụ huynh các học sinh giỏi, trước khi thi không nói nhiều, không dặn đi dặn lại: “Con phải dồn hết tâm trí, phải cẩn thận tỉ mỉ” Và cũng không nói, ví dụ không thi được thì hậu quả sẽ ra sao, và cũng không hứa là thưởng gì đó cho con, càng không bao giờ dọa nạt con. Tốt nhất chỉ nên nói với con “Khi thi con nỗ lự hết mình là được rồi”.

4 Phụ huynh với con đề ra kế hoạch ôn tập sao cho hợp lý. Đưa ra kế hoạch ôn tập, chính yếu là theo ý kiến của con, cha mẹ có thể nêu ý kiến và khuyên 1 số điều cần thiết, tuyệt đối không nên làm hộ theo ý mình.

5 Tạo môi trường ôn tập yên tĩnh, vì có yên tĩnh các em mới có tâm trạng thanh thản, và tăng hiệu quả ôn tập. Một môi trường ồn ào, không những khiến các em cáu kỉnh mà còn ảnh hưởng đến hiệu quả.

6Khuyên con nên dành một ít thời gian để vận động và giải trí nhẹ nhàng. Trong thời gian tại nhà ôn tập, có không ít em cứ ngồi xuống làm bài hay xem sách là ngồi cả 1 buổi, trưa cũng không nghỉ, đến đau đầu nhức óc, tương tự không những không tốt cho việc học mà còn ảnh hưởng đến tinh thần.

7 Khuyên con nên Quan tâm giữ gìn sức khỏe. Có những em trước lúc thi bị đi ngoài do ăn uống mất vệ sinh. Có một số em thì do mở máy điều hòa nhiệt độ trong thời gian dài, còn có em thì bị cảm nắng do thời tiết quá nóng bức. Điều này không những ảnh hưởng tới tinh thần của các em, mà còn ảnh hưởng tới việc ôn tập. Phụ huynh phải Quan tâm giữ vệ sinh trong ăn uống cho các em, không nên cho con ăn nhiều thịt, cá và những thức ăn nhiều mỡ, uống nhiều nước lạnh, vì những thức ăn đồ uống này dễ gây rối loạn tiêu hóa.

8 Thường xuyên giúp các em điều chỉnh tinh thần. Trong thời gian ôn tập chuẩn bị thi, tâm trạng có một số thay đổi, thậm chí có hiện tượng sự buồn bực không yên, đây cũng là hiện tượng bình thường, phụ huynh không nên quá lo ngại. Nhưng cũng nên bình thản và xuất phát từ góc độ tôn trọng con, giúp con cân bằng tâm lý một cách kịp thời, tránh tình trạng này tiếp tục phát triển.

9 Chuẩn bị một túi thuốc nhỏ. Trong thời gian này, rất có thể là các em dễ bị ốm vặt như: cảm cúm, rối loạn tiêu hóa… bởi vậy phải chuẩn bị những thuốc thông dụng. Tuy nhiên, cũng đừng chủ quan hãy nên hết sức Quan tâm việc bộ phận bệnh là chính.

10

Hãy phụ với con chuẩn bị những thứ cần dùng trong khi con đi thi. Tối hôm trước ngày thi phải nhắc nhở xem các em đã bỏ thẻ dự thi vào túi chưa? Hai ngày trước khi thi nếu có điều kiện hãy cùng con đi xem trường thi… Trước khi con đi thi, phụ huynh phải làm rất tốt việc bảo đảm tinh thần của con ở trạng thái tốt, đảm bảo chất lượng ôn tập bằng hành động thực tế của mình, giúp con đạt được giấc mơ về đại học.

(Nguyễn Thu Thủy)

Rối loạn tiêu hoá: Bệnh dễ mắc ở trẻ em

BS. Trần Trung

Trong ruột người có hàng nghìn loại vi khuẩn khác nhau, các vi khuẩn có lợi và có hại sống "bình đẳng" với nhau lúc cơ thể khỏe mạnh. Do nhiều nguyên nhân như sử dụng thuốc kháng sinh chỉ mất khoảng dài, chế độ ăn nhiều đường hoặc quá ít sữa lên men tự nhiên như sữa chua, phô mai không béo..., uống nhiều bia rượu... sự cân bằng này bị biến mất. Khi các vi khuẩn có lợi bị tiêu diêt, các vi khuẩn có hại tiện lợi xâm nhập gây ra các triệu chứng rối loạn tiêu hoá như tiêu chảy, đầy hơi, trướng bụng, táo bón, đáp ứng miễn dịch kém, mệt mỏi mạn tính, dị ứng...

 Cho trẻ ăn dặm với thức ăn đầy đủ dinh dưỡng để tránh rối loạn tiêu hóa. Ảnh: PV

Căn bệnh này rất nguy hiểm vì đối tượng dễ mắc phải đặc biệt trẻ em, đặc biệt là trẻ em đang tại độ tuổi ăn dặm. Khi còn nằm trong bụng mẹ, trẻ được sống trong môi trường vô trùng, được bảo vệ cẩn thận. Lúc ra đời, hệ miễn dịch của trẻ còn rất non yếu, các vi khuẩn thuận lợi xâm nhập. Khi trẻ Tiến hành ăn dặm , không còn chỉ ăn sữa nữa, hệ vi sinh của trẻ chưa hoàn thiện, dễ dẫn đến tình trạng suy giảm chức năng tiêu hoá, thức ăn không được tiêu hoá hoàn toàn (cơ thể khó hấp thu dinh dưỡng, phân sống...) khiến các vi khuẩn gây bệnh phát triển. Khi nhiễm khuẩn, trẻ thường lười ăn, hay nôn, tiêu chảy, táo bón... Qua thời gian ngắn, trẻ sẽ bị suy dinh dưỡng. Khi cơ thể trẻ yếu thì các vi khuẩn có hại này làm bệnh càng trầm trọng hơn.

Bệnh này còn dễ không may gặp phải tại những trẻ dùng thuốc kháng sinh chỉ mất khoảng dài. Các chất kháng sinh không mục tiêu diệt vi khuẩn có hại mà còn diệt luôn cả vi khuẩn có lợi. Lợi dụng thời điểm đó, các vi khuẩn có hại xâm nhập và phát triển mạnh hơn, gây mất cân bằng hệ thống vi khuẩn đường ruột (còn gọi là " loạn khuẩn ruột" ), dẫn tới rối loạn tiêu hoá.

Hoặc lúc trẻ phải chịu một chế độ ăn uống không hợp lý, giàu đạm, đường, chất béo... ít chất xơ, vitamin, chất khoáng... mà các bà mẹ vận dụng cũng là nguyên do gây ra các bệnh vào đường tiêu hoá cho trẻ. Trẻ sẽ biếng ăn, không hấp thu được các chất dinh dưỡng, dễ gây suy dinh dưỡng, ảnh hưởng mạnh mẽ đến quy trình phát triển của cơ thể.

Khi trẻ có các dấu hiệu của rối loạn tiêu hóa như biếng ăn, đi ngoài phân sống... cần đưa trẻ đi khám bác sĩ. Thông thường bên cạnh việc điều chỉnh chính sách ăn phù hợp, bác sĩ sẽ chỉ định sử dụng men tiêu hóa để lập lại cân bằng hệ vi sinh đường ruột, các nhà khoa học nhận định rằng cách rất tốt nhất là bổ sung 1 hệ vi khuẩn mới có lợi dưới dạng chế phẩm Probiotic. Các vi khuẩn được chọn lựa chính yếu là vi khuẩn tại nhóm Lactic (Lactobacillus, Streptococcus). Loại men này sẽ giúp lập lại cân bằng hệ vi khuẩn đường ruột, hỗ trợ điều trị rối loạn tiêu hoá, tiêu chảy, đầy hơi, khó tiêu... với những trẻ lười ăn, kém hấp thu.

(BS. Trần Trung)

Trẻ phát bệnh vì bị ép ăn

Chỉ nhìn thấy thức ăn, một số trẻ đã nôn, khóc, thậm chí sợ đến mức không ngủ yên giấc. Ngoài việc mắc bệnh biếng ăn tâm lý, nhiều trẻ còn chậm phát triển do bị cha mẹ ép ăn.

Bác sĩ Nguyễn Thị Hoa, Trưởng khoa Dinh dưỡng Bệnh viện Nhi Đồng một TP HCM, cho biết hiện mỗi ngày khoa tiếp nhận hơn 100 trẻ đến khám, trong đó khoảng 40% trẻ bị biếng ăn tâm lý.

Mở mắt ra là ăn

Mới đây, bé K. (5 tuổi, ngụ ở quận Tân Bình) được mẹ đưa tới bác sĩ khám vì suy dinh dưỡng, biếng ăn. Bé gầy gò,da xanh xao và không chịu giao tiếp với bất cứ ai. Người mẹ kể, mỗi lần ăn, cả mẹ và cô giáo đều phải la mắng suốt.

 

Gần đây, do quá bận bịu với công việc, người mẹ đã “khoán trắng” việc ăn uống của bé cho cô giáo, song song ủng hộ việc cô hù dọa để K. sợ, phải ăn. Những lần sau đó, chỉ cần K. từ chối ăn là cô giáo sẵn sàng dọa cho vào bao tải cột lại… Bé càng ngày càng sợ, chỉ cần nhìn thấy thức ăn là ngay lập tức ói. Từ 1 cháu bé vui vẻ, hoạt bát, K. trở nên chậm chạm, ít nói. Các bác sĩ chẩn đoán cháu mắc bệnh biếng ăn tâm lý,và đã có triệu chứng của bệnh tự kỷ ám thị.

 Nhiều trẻ mắc bệnh biếng ăn tâm lý, chậm phát triển do bị cha mẹ ép ăn 
Theo bác sĩ Hoa, trẻ mắc bệnh biếng ăn tâm lý phần lớn do bị cha mẹ ép ăn. Nhiều bà mẹ đưa trẻ tới khám vìbiếng ăn, nhưng lại được bác sĩ chẩn đoán… béo phì. Với quan niệm trẻ con càng tròn trịa càng dễ thương, nhiều bà mẹ ra sức ép con ăn mà quên đi nguy cơ béo phì tại trẻ. Không ít người còn ra sức ép vì luôn lấy cân nặng của con làm thành tích của mình (nhất là các bà mẹ chỉ ở nhà chăm con). Nghehọ kể về thực đơn đã ép trẻ ăn trong ngày, các bác sĩ chỉ biết… lắc đầu.

Bác sĩ Hoa nhấn mạnh, ngay cả khi bắt được con ăn theo ý muốn thì trẻ cũng không thể phát triển tốt. Trẻbị ức chế nên không tiết được đầy đủ các men tiêu hóa, không thể hấp thu tốt thức ăn. Chưa kể sự căng thẳng trong những bữa ăn còn làm trẻ luôn bị ám ảnh, ngủ không ngon giấc, không tiết ra được hoóc môntăng trưởng để phát triển.

Căng thẳng từ mẹ chuyển sang con

Chuyên gia tâm lý Ngô Xuân Điệp cho biết, khoa Tâm lýBệnh việnNhi Đồng 2 TP HCM thường xuyên tiếp nhận trẻ rối nhiễu tâm lý do bị cha mẹ, thầy cô giáo ép ăn. Với nhiều trẻ, ăn uống trở thành 1 chuyện rất khủng khiếp, có cháu bé sợđến mức nhịn suốt 2 ngày.

Theo ông Điệp, sở dĩ có tình trạng trên là do nhiều người mẹ quá đề cao chế độ dinh dưỡng của trẻ. Chỉ cần trẻ không ăn một bữa hoặc ít hơn mọi ngày là đã căng thẳng. Cũng vì lý do này mà thực đơn của trẻ thường được kê quá nhiều.Trẻ sắp như bị tước đoạt cảm giác thèm ăn. Doluôn bị ép ăn trước lúc cảm thấy đói, trẻ sẽ dần mắc bệnh biếng ăn tâm lý.

Khi sợ ăn, hoặc bị ép ăn no quá, trẻ bị nôn. Sợ con đói, nhiều người lại tiếp tục bắt trẻ ăn, thậm chí bóp miệng để đưa thực phẩm ăn vào. Điều này càng tạo thêm sự căng thẳng, sợ hãi tại trẻ. Sợ ăn kéo dài đồng nghĩa với việc trẻ bị stress kéo dài, gây ảnh hưởng đến phát triển tâm lý sau này. Dành quá nhiều thời gian cho việc ăn uống,trẻ sẽ mất đi thời gian vui chơi, vận động, gây chậm phát triển.

Ông Ngô Xuân Điệp khuyên, các bậc cha mẹ cần tôn trọng việc ăn uống của con kể cả khi trẻ từ chối, đừng quá chú trọng đến chính sách dinh dưỡng mà quên đi sự phát triển tinh thần, thể chất của trẻ. Cũng vậy, bác sĩ Hoa khẳng định, khi thấy trẻ biếng ăn bất thường, nên đưa đi khám, tránh tự ý cho trẻ uống thuốc bổ hoặc những sản phẩm quảng cáo dành cho trẻ biếng ăn. Tạo không khí vui vẻ, tha hồ trong lúc ăn,để trẻ chọn những món ưa thích. Nên tách riêng từng món, thay vì trộn lẫn.

TheoThanh PhươngDatViet.gif

 

Khi nào thì nên cho trẻ khám sỏi thận?

Phụ huynh không nên quá hoang mang, nếu trẻ khỏe mạnh thì không nên đi khám sỏi thận. Nhiều cha mẹ đã đưa con đến bệnh viện hoặc điện thoại hỏi để được tư vấn về những nhận biết lúc con bị nhiễm melamine.

Những triệu chứng nên khám sỏi thận

 Phụ huynh không nên quá hoang mang, nếu như trẻ khỏe mạnh thì không nên đi khám sỏi thận

Bác sĩ Cấn Phú Nhuận - Trưởng khoa Khám bệnh Bệnh viện Nhi trung ương cho biết mấy ngày nay nhiều bà mẹ đã đưa con đi kiểm tra sỏi thận.

Theo bác sĩ Nhuận, đối với trẻ không được nuôi bằng sữa mẹ, nếu như uống phải sữa chất lượng kém thì trẻ sẽ không hấp thụ được và không tăng cân. Tuy nhiên, nếu như sau sáu, bảy tháng con mình ốm yếu, không nâng cao cân, các bậc cha mẹ mới nên đưa tới bệnh viện khám.

Một trong những triệu chứng của sỏi thận là rối loạn đường tiêu hóa như đi tiểu nhiều lần, tiểu són hay tiểu khó, tia nước tiểu yếu, ít. Ngoài ra, trẻ bị sỏi thận còn có thể đi tiểu ra máu, nước tiểu đục và kèm theo những cơn đau bụng. Trẻ chậm lên cân, ói mửa thường xuyên, kém ăn cũng là biểu hiện của suy thận hoặc ngộ độc với melamine. Với những biểu hiện bệnh trên, bác sĩ sẽ siêu âm bụng, đồng thời xét nghiệm máu để xác định đúng bệnh.

Bác sĩ khuyên: Cha mẹ không nên đưa trẻ đi khám bệnh ví dụ không thấy 1 trong những biểu hiện trên. Thậm chí trẻ đang khỏe mạnh cũng có thể bị lây bệnh từ trẻ bệnh đang cùng chờ khám.

Bác sĩ Tăng Chí Thượng - Giám đốc Bệnh viện Nhi đồng 1 (TP.HCM) cho biết có không ít phụ huynh gọi điện thoại tới nhờ tư vấn melamine là chất gì, nguy hại ra sao. Đã có một, hai phụ huynh tới Bệnh viện Nhi đồng 1 xin kiểm tra sỏi thận cho con, không những thế chưa có trường hợp nào mắc phải. Bác sĩ Thượng cho biết nếu như bà mẹ khai cho con uống sữa có Xuất xứ từ Trung Quốc có melamine, bệnh viện sẽ cho theo dõi, kiểm tra làm rõ.

Nếu bà mẹ khai cho con uống sữa Trung Quốc nhưng không rõ là loại nào thì bệnh viện sẽ cho xét nghiệm tổng phân tích nước tiểu để xem có hồng cầu, đạm hay không. Nếu trong nước tiểu của trẻ có hồng cầu, đạm thì sẽ tiếp tục cho trẻ siêu âm để kiểm tra tiếp. “Nếu bà mẹ không cho con em mình uống sữa có Xuất xứ từ Trung Quốc thì cũng đừng quá lo lắng và bệnh viện sẽ hỗ trợ tư vấn là không nên kiểm tra” - bác sĩ Thượng nói.

Một sản phẩm sữa có 2 kết quả xét nghiệm

Tối 30-9, từ kết quả xét nghiệm của Viện Vệ sinh y tế công cộng TP.HCM cho thấy sản phẩm sữa tăng chiều cao dành cho trẻ từ 1 tới bảy tuổi của Công ty cổ phần Dinh dưỡng Thực Phẩm Vàng (phường 4, Phú Nhuận, TP.HCM) nhiễm melamine, Thanh tra Sở Y tế niêm phong tất cả mặt hàng nói trên cùng những sản phẩm sữa khác cũng của công ty.

 Kiểm tra chất melamine tự động trên máy GCMS tại Viện Vệ sinh y tế công cộng TP.HCM
Ông Trần Anh Tuấn, Giám đốc Công ty cổ phần Dinh dưỡng Thực Phẩm Vàng, cho biết tháng 7-2008, công ty sản xuất thử 72 hộp sữa tăng chiều cao dành cho trẻ từ một tới bảy tuổi (bao bì giấy có trọng lượng 440 g). Công ty đã biếu 51 hộp cho khách hàng quen, 21 hộp còn lại được để ở công ty. Cũng theo ông Tuấn, nguyên liệu để sản xuất mặt hàng trên cùng các sản phẩm sữa khác đều nhập từ Công ty Maray Goubourn (Úc) và được một cơ quan sở ở xác nhận không nhiễm melamine.

Ông Tuấn cho biết thêm, khi diễn ra sự kiện chất melamine có trong sữa Trung Quốc, Công ty Thực Phẩm Vàng mang toàn bộ mẫu sữa của công ty xét nghiệm ở Trung tâm Đào tạo và phát triển sắc ký TP.HCM và kết quả đều không nhiễm melamine. Tuy nhiên, lúc Thanh tra Sở Y tế mang tất cả mẫu sữa của công ty xét nghiệm ở Viện Vệ sinh y tế công cộng TP.HCM thì chỉ có sữa nâng cao chiều cao dành cho trẻ từ một đến bảy tuổi bị nhiễm melamine, mặc dù hàm lượng không cao.

Theo đề nghị của ông Tuấn, Thanh tra Sở Y tế đồng ý cùng đại diện công ty ngày 1-10 mang mẫu lưu của sữa tăng chiều cao dành cho trẻ từ 1 đến bảy tuổi tới Viện Vệ sinh y tế công cộng TP.HCM xét nghiệm lại để có kết quả chính xác. Thanh tra Sở Y tế cũng yêu cầu Công ty Thực Phẩm Vàng thu hồi số lượng sữa nâng cao chiều cao dành cho trẻ từ 1 đến bảy tuổi đã biếu khách hàng.

TheoT. Như - T. Ngọc.D. Tínhphapluattphcm.gif

Lời khuyên cho các bà mẹ ít sữa

Cho trẻ bú bằng sữa mẹ mang lại gần như ích lợi cho cả mẹ và bé. Tuy nhiên, rất nhiều người thường lo lắng vì không có đủ lượng sữa thiết yếu cho bé. Những cách đơn giản sau sẽ giúp chị em phần nào giảm bớt những lo lắng này.

Vai trò của sữa mẹ

Trước hết sữa mẹ là thức ăn hoàn chỉnh nhất, phù hợp nhất đối với trẻ mà không có bất cứ loại sữa bột nào có thể so sánh được. Trong sữa mẹ có đủ năng lượng và chất dinh dưỡng nhu yếu như: đạm, đường, mỡ, vitamin và muối khoáng với tỉ lệ thích hợp cho sự hấp thu và phát triển cơ thể trẻ. Bú mẹ, trẻ sẽ to nhanh, phòng được suy dinh dưỡng. Trong sữa mẹ có những nhân tố cần phải có bảo vệ cơ thể mà không một thức ăn nào có thể thay thế được đó là: các globulin miễn dịch, cốt yếu là IgA có tác dụng bảo vệ cơ thể chống các bệnh đường ruột và bệnh nhiễm khuẩn.

 

Các loại sữa mẹ

Sữa non: là dòng sữa đầu tiên, rất giàu năng lượng, thích hợp với nhu cầu của trẻ sơ sinh, nhất là trẻ sơ sinh non tháng. Sữa non giàu đường lactose và ít protein (đạm) hơn sữa bò, giàu các chất diệt khuẩn giúp trẻ tránh các bệnh nhiễm trùng, giàu vitamin A gấp 10 lần so với sữa vĩnh viễn. Nếu vì lý do gì trẻ không bú được sữa non thì có thể vắt ra cho trẻ uống.

Sữa chuyển tiếp: có từ ngày thứ 5 tới ngày thứ 14 sau lúc người phụ nữ sinh con.

Sữa vĩnh viễn: từ ngày 10 – 14 sau sinh, sữa mẹ sẽ tăng nhiều về số lượng và thay đổi cả vào hình thức lẫn thành phần. Sữa mẹ trở thành loãng hơn và đó là sữa mẹ hoàn chỉnh với các thành phần dinh dưỡng ổn định. Các nhà chuyên môn tiếp nhân thấy, chính sách dinh dưỡng của người mẹ sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng sữa mẹ.

Các nguyên do làm giảm sự tiết sữa

Cho con bú chậm sau sinh từ hai -3 ngày. Mẹ có các bệnh lý như: suy tim, thiếu máu, suy dinh dưỡng…

Mẹ còn quá trẻ: dưới 18 tuổi, tuyến vú chưa phát triển.

Mẹ không nâng cao cân đầy đủ khi mang thai.

Mẹ dùng các thuốc ức chế sự tiết sữa: aspirin, kháng sinh, chống dị ứng.

Làm gì để mẹ cónhiều sữa

Cho trẻ bú đều: tốt nhất, ngay sau khi sinh trong vòng nửa giờ đầu người mẹ nên cho trẻ bú. Vì sữa mẹ tiết ra theo phản xạ, bú sớm có tác dụng kích thích bài tiết sữa sớm… Trong những ngày đầu sữa còn ít, cần cho trẻ bú nhiều lần, sữa sẽ “về” nhiều hơn. Nếu đã ít sữa mà lại cho trẻ bú ít hoặc ăn bổ sung sữa ngoài, trẻ sẽ bỏ bú và sữa cạn dần, dẫn đến mất sữa. Trẻ được bú sữa non sẽ phòng bệnh được tốt. Động tác bú có tác dụng co hồi tử cung và cầm máu cho người mẹ sau sinh.

Dinh dưỡng đầy đủ: để góp phần bảo đảm có đủ sữa cả về số lượng lẫn chất lượng, người mẹ cần ăn uống đầy đủ. Khẩu phần ăn cần tăng thêm khoảng 350 Kcal/ngày, tương đương khoảng 1/4 lượng thức ăn so với ngày thường. Bữa ăn của mẹ cần đảm bảo đủ 4 nhóm thực phẩm. Nhóm chất bột (cơm, khoai củ, bánh mì, bún, bánh phở…); Nhóm chất đạm (thịt, cá, trứng, sữa, tôm, cua, đậu đỗ…); Nhóm chất béo (dầu mỡ, bơ, lạc…); Nhóm viatmin và khoáng chất (rau xanh, quả chín). Mỗi bữa bà mẹ nên ăn thêm 1 bát cơm hoặc 1 củ khoai cùng ít thịt hoặc cá, trứng, đậu đỗ, rau củ và quả chín…

Uống đủ nước: người mẹ cần đem đến đủ lượng nước nhu yếu cho cơ thể, có thể là uống sữa hay nước ép trái cây đều rất tốt chỉ cần khoảng cho bé bú, uống đủ nước giúp cơ thể mẹ tiết ra nhiều sữa cho bé hơn.

Nghỉ ngơi đầy đủ: các bà mẹ đang trong thời kỳ cho con bú rất cần được nghỉ ngơi đầy đủ và liên tục đi dạo để hít thở không khí trong lành. Để bảo đảm sức khỏe và đủ sữa cho con bú, bạn cần ngủ ít nhất 10 tiếng mỗi ngày, hai - 4 tiếng ban ngày và 6-8 tiếng ban đêm. Stress ảnh hưởng lớn tới việc tiết sữa của cơ thể người mẹ, vì thế nghỉ ngơi và thư giãn là cách giúp nâng cao cường lượng sữa. Ngoài ra, người mẹ cần ăn kiêng những chất ảnh hưởng tới chất lượng và số lượng sữa như: rượu, cà phê, thuốc lá… Không nên uống các loại thuốc tân dược lúc không có chỉ định của bác sĩ.

BS. Lê Khánh Vân

(BS. Lê Khánh )

Tại sao dùng thuốc cho trẻ nhỏ cần thận trọng?

Các yếu tố này phối hợp và tương tác qua lại lẫn nhau, nhưng không như nhau tuỳ từng giai đoạn. Trong giai đoạn 0 – 5 tuổi, các cơ quan trong cơ thể trẻ đang dần hoàn thiện, do đó việc sử dụng thuốc trị bệnh ở lứa tuổi này cần nhất là lưu ý.

Các mốc cấp thiết trong sự phát triển của trẻ

Giai đoạn trẻ từ 0 đến 18 tháng tuổi: Đây là thời kỳ rất cần thiết trong quy trình phát triển của trẻ. Cơ thể và tâm lý có nhiều sự thay đổi lớn, các cơ quan phát triển đạt kỷ lục trong giai đoạn này. Những đánh tráo trong thời kỳ sơ sinh, thời kỳ bú mẹ và thời kỳ răng sữa là để trẻ thích nghi với cuộc sống bên ngoài tử cung, tiếp tiếp nhân nguồn dinh dưỡng từ sữa mẹ và thức ăn bổ sung. Trong giai đoạn này, các giác quan phát triển để tiếp nhận mọi kích thích từ môi trường sống mang tính tâm lý đầu tiên. Giai đoạn này sự gắn bó mẹ - con đảm bảo các nhu cầu hợp lý cho trẻ, nhờ đó tạo được sự an tâm cho trẻ và khuyến khích được tiềm năng sinh học phát triển ban đầu. Chăm sóc trẻ hợp lý trong giai đoạn này tạo nền tảng không chỉ cho sự phát triển trí não mà còn tăng cường miễn dịch giúp trẻ phát triển khỏe mạnh lâu dài. Tuy nhiên do các cơ quan trong cơ thể chưa hoàn chỉnh, trẻ rất dễ bị tổn thương từ các nhân tố môi trường, trong đó dinh dưỡng là nhân tố môi trường cần thiết nhất ảnh hưởng đến cuộc sống trong giai đoạn hai năm đầu đời và sau này. Trong thời kỳ sơ sinh 28 ngày sau đẻ, trẻ có thể mắc các dị tật bẩm sinh, các bệnh liên quan đến cuộc đẻ, các bệnh nhiễm trùng...

Giai đoạn từ 18 đến 36 tháng tuổi: Trẻ lớn chậm hơn so với thời kỳ bú mẹ, chức năng các phòng được hoàn thiện dần. Chức năng vận động tại thời kỳ này phát triển rất nhanh, hệ thần kinh cao cấp phát triển mạnh: Trẻ biết đi, biết nói, nhờ đó trẻ hiếu động, ham mê thích tìm hiểu môi trường xung quanh, thích tiếp xúc với bạn bè và người lớn, trẻ hay bắt chước, vì vậy những hành vi xấu, tốt của người lớn đều ảnh hưởng tới tính tình, nhân cách của trẻ. Trẻ bước đầu tách mẹ tự lập: Cai sữa, xa mẹ đi nhà trẻ, mâu thuẫn với người lớn vì phải ghép về kỷ luật. Sự cấm kỵ nghiêm ngặt hoặc thiếu chăm sóc làm mất tính độc lập, giảm năng lực tìm hiểu thế giới để thích nghi. Các rối loạn thường gặp là trẻ khó ăn ngủ, hiếu động, hay quấy khóc…

Giai đoạn trẻ từ 3 tới 5 tuổi: Trong thời kỳ này, trẻ đã nói và đi thành thạo, sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp, phát triển tính độc lập, tò mò tự mình tìm hiểu toàn cầu xung quanh, trẻ rất hiếu động, hay tháo gỡ hoặc phá đồ vật để tìm hiểu. Nhận thức phát triển, biết phân biệt đúng sai, hư thực nhưng chưa thành thục và nhận thức “cái tôi” đơn giản. Trẻ biết phân biệt giới tính và xu thế phát triển tính cách theo giới, trong các trò chơi mang đặc thù vào giới. Thời kỳ này, hệ thống đáp ứng miễn dịch đã phát triển, bởi thế dễ bị các bệnh dị ứng hay nhiễm trùng - dị ứng như: Mẩn ngứa, hen, viêm cầu thận cấp…

Tại sao dùng thuốc cho trẻ nhỏ cần thận trọng?Các giai đoạn phát triển của trẻ.

Đặc điểm lứa tuổi cần cẩn trọng khi dùng thuốc

Chức năng gan, thận chưa hoàn chỉnh: Các nhà khoa học đã chứng minh rằng: Chuyển hóa thuốc trong cơ thể cốt yếu tại gan và thải trừ qua thận. Ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, chức năng gan thận chưa hoàn chỉnh, chẳng hạn như bề mặt tiểu cầu thận trẻ sơ sinh chỉ bằng 25% người lớn và mức độ lọc cầu thận chỉ bằng 5% nên việc dùng các dung dịch còn chậm. Ống thận trẻ nhỏ còn ngắn nên sự tái hấp thụ các chất còn ít, khả năng thải trừ thuốc cũng chậm hơn nhiều so với trẻ to và người lớn nên dễ bị ngộ độc thuốc. Ví dụ: Thời gian bán huỷ của cloramphenicol ở sơ sinh là 24 giờ, trong khi đó tại người lớn là 4 giờ, nên khi dùng cloramphenicol tại trẻ sơ sinh có thể gây ngộ độc (gây hội chứng xám: “gray syndrome” tại sơ sinh). Do vậy, lúc sử dụng thuốc cho trẻ sơ sinh nhất là là trẻ đẻ non thì phải giảm liều và kéo dài khoảng cách giữa hai lần sử dụng thuốc.

Khả năng gắn thuốc với protein kém: Các thuốc về máu phần to gắn với protein để vận chuyển tới nơi có tác dụng. Khi ở dạng gắn với protein, thuốc không có tác dụng sinh học và không độc. Ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, khả năng gắn thuốc với protein kém nên thuốc tại dạng tự do có tác dụng sinh học và dễ gây ngộ độc. Ngoài ra, thuốc có thể cạnh tranh với bilirubin tự do để kết hợp với protein nên có thể làm tăng bilirubin tự do dẫn đến vàng da.

Hệ thần kinh trung ương chưa hoàn thiện và hàng rào máu não chưa bền vững: Chính điều này dẫn đến phản ứng của trẻ với một số thuốc cũng khác người lớn. Ví dụ: Trẻ nhỏ rất nhạy cảm với morphin và các chất như vậy khi sử dụng dễ bị ức chế cơ sở hô hấp, nhưng lại chịu được một liều lượng tương đối cao với các thuốc ngủ.

Sự hấp thụ, đào thải thuốc có không ít đặc điểm riêng: Sự hấp thụ 1 số thuốc ở dạ dày và ruột phụ thuộc vào độ pH và vào thời gian thuốc lưu lại ở ống tiêu hoá. Ở trẻ sơ sinh, acid ở dạ dày sau 7 ngày mới Tiến hành tiết dịch vị và đến 3 tuổi mới đạt mức bình thường. Thời gian lưu thuốc ở dạ dày tại lứa tuổi này kéo dài 6-8 giờ và phải hai tháng sau mới đạt mức của người lớn. Bên cạnh đó, ruột trẻ em tương đối dài so với ruột người lớn, dạ dày và thực quản dốc thẳng nên ảnh hưởng đến sự hấp thu thuốc và thức ăn. Thuốc được chuyển hóa trong cơ thể, sự chuyển hoá được đánh mức giá bằng sự đào thải qua gan hoặc qua thận. Thuốc bài tiết qua gan phụ thuộc về sự chuyển hoá nhờ các enzym và phụ thuộc vào dòng máu qua gan. Chức năng thận cũng chưa được hoàn thiện. Cả 2 nhân tố này đều khác nhau theo lứa tuổi nên việc dùng thuốc cần hết sức thận trọng.

Trẻ em không phải là người lớn thu nhỏ: Trẻ dưới 1 tuổi, nhất là là trẻ sơ sinh (dưới 1 tháng tuổi) nhu động ruột hoạt động mạnh, trẻ đi ngoài nhiều lần trong ngày nên không sử dụng những thuốc uống ở dạng tác dụng kéo dài vì nếu như sử dụng thì thuốc chưa kịp hấp thu, phát huy tác dụng đã bị nhu động ruột tống ra ngoài theo phân. Cơ thể trẻ chiếm tới 80% là nước (nhất là trẻ sơ sinh) nên cơ bắp chưa phát triển. Đây là lý do trẻ không sử dụng thuốc theo đường tiêm bắp mà tiêm đường tĩnh mạch. Hơn nữa, do đặc điểm này nên những thuốc tan trong nước có thể tích phân bố rất rộng khiến trẻ em phải dùng liều cao hơn người to thì mới đạt hiệu quả điều trị. Ngoài ra, da trẻ em rất mỏng, hàng rào biểu mô chưa trưởng thành, diện tích bề mặt da so với trọng lượng cơ thể lớn nên khả năng hấp thu thuốc qua da cũng rất lớn, nhất là tại vùng bẹn hoặc mặt. Do vậy, những thuốc bôi ngoài da dễ gây kích ứng, dị ứng hoặc gây độc toàn thân. Hãy nhớ rằng: Trẻ em không phải là người lớn thu nhỏ lại và vì nhiều lý do khác nhau, những thuốc bạn tự ý dùng có thể gây độc cho trẻ. Đặc biệt, với những trẻ dưới 1 tuổi, đã có trên 75% số ca bị ngộ độc là do sử dụng thuốc thiếu chính xác của gia đình.

Cách nào sử dụng thuốc an toàn cho trẻ?

Chính vì đặc điểm phát triển của trẻ trong giai đoạn từ 0-5 tuổi với sự phát triển chưa hoàn thiện các bộ phận quan trọng liên quan tới hấp thụ, thải trừ thuốc nên cha mẹ cần có kiến thức đúng để lựa chọn loại thuốc có thành phần phù hợp cũng như cách sử dụng hợp lý. Bên cạnh đó, cha mẹ cần chú ý dùng đúng dạng thuốc như thuốc uống hay thuốc tiêm..., không nên trộn thuốc với thức ăn, không lạm dụng các thuốc bôi da sử dụng tại chỗ như kem, thuốc mỡ…, không nên lạm dụng thuốc kháng sinh, tránh sử dụng các thuốc ảnh hưởng đến quy trình phát triển xương, sụn, hormon, mạch máu... Ngoài ra, trong quy trình trẻ sử dụng thuốc, cha mẹ cần đặc biệt lưu ý sử dụng đúng thuốc và liều được chỉ định, chọn đúng dụng cụ để đong thuốc, hạn chế dùng các thuốc tác dụng tới thần kinh trung ương vì nguy cơ ức chế hô hấp, không dụ dỗ trẻ uống thuốc... Để tránh các tai biến có thể xảy ra lúc dùng thuốc, cha mẹ cần lưu ý các loại thuốc trẻ được kê sử dụng cần để tại vị trí cao khỏi tầm tay trẻ em, thuốc của người to lúc dùng phải uống ngay, tránh để tạm một nơi nào rồi quên, trẻ sẽ tiện dụng bỏ vào miệng. Trường hợp trẻ uống nhầm phải thuốc, cần phải làm cho trẻ nôn càng sớm càng tốt. Cố gắng tìm xem trẻ đã uống phải loại thuốc gì bằng cách kiểm tra thuốc đang sử dụng dở dang, thuốc thiếu còn nằm trong túi, thuốc rơi vãi dưới bàn ghế hay trên mặt đất... và mang theo lúc đưa trẻ nhập viện để các bác sỹ dễ dàng nhận ra nguyên do ngộ độc và sử dụng thuốc giải độc phù hợp. Có thể gọi điện thoại đến khoa cấp cứu để được hướng dẫn xử trí tạm thời và nhập viện càng sớm càng rất tốt vì sau 4 giờ thuốc có thể ngấm vào cơ thể trẻ.

PGS. TS. Nguyễn Ngọc Sáng

Những nguy hiểm khi dùng kháng sinh điều trị xơ nang

Nhóm kháng sinh aminoglycosid được sử dụng ở khoảng 70.000 người trên thế giới bị xơ nang - căn bệnh di truyền mạn tính ảnh hưởng chính yếu tới phổi, nhưng cũng ảnh hưởng tới cả tuyến tụy, gan, thận và ruột. Kết quả nghiên cứu cho thấy những bệnh nhân sử dụng kháng sinh liều cao để giảm triệu chứng nhiễm trùng đường hô hấp dễ bị mất thính lực vĩnh viễn hơn 4,79 lần.

Tình hình càng nghiêm trọng hơn do tình trạng cô lập, trầm cảm và suy giảm tiếp nhân thức tại những bệnh nhân này. Aminoglycosid ức chế tổng hợp protein của vi khuẩn, giúp diệt trừ nhiễm trùng đe dọa tính mạng, nhưng thuốc cũng có thể làm giảm chức năng nghe của tai trong và chức năng thận.

“Ngăn ngừa hoặc giảm nhẹ tác động của giảm thính lực vĩnh viễn là rất quan trong đối với bệnh nhân xơ nang vốn đã có chất lượng sống bị giảm sút do bệnh”, Angela Garinis, Đại học Y tế và khoa học Oregon, Mỹ cho biết.

Nghiên cứu, được tuyên bố bố trên tạp chí Cystic Fibrosis, đã kiểm tra bệnh án của 81 bệnh nhân xơ nang tuổi từ 15-63, được phân thành 4 nhóm dựa trên liều tích lũy kháng sinh aminoglycosid tiêm tĩnh mạch .Các bác sĩ cần thường xuyên theo dõi khả năng nghe của mọi bệnh nhân tiêm tĩnh mạch aminoglycosid. Ngoài ra, các bác sĩ điều trị cho bệnh nhân xơ nang nên xem xét những chiến lược thay thế để điều trị các triệu chứng của nhiễm trùng đường hô hấp đi kèm với bệnh.

BS. Tuyết Mai

(Theo Boldsky)

Những điều cần biết về tiêm hormon tăng trưởng

Các hormon không giống chịu trách nhiệm kiểm soát các hoạt động và quá trình khác nhau. Các hormon kiểm soát các quy trình như:

Sự nâng cao trưởng và phát triển

Chuyển hóa

Chức năng sinh dục

Sinh sản

Tâm trạng

Có 1 số tuyến trong cơ thể sản sinh các hormon nhưng tuyến yên được coi là tuyến kiểm soát chủ đạo. Nó không chỉ kiểm soát các tuyến khác mà nó còn tạo ra hormon kích thích nâng cao trưởng.

Tuyến yên nằm trong não tại vùng dưới đồi. Nó tiết ra các hormon trong đáp ứng với các tín hiệu hóa học từ vùng dưới đồi

Hormon tăng trưởng tại người (HGH) ảnh hưởng đến chiều cao cũng như sự hình thành xương và cơ trong cơ thể.

Hormon tăng trưởng tại người có vai trò gì?

HGH nhu yếu cho sự phát triển đặc biệt là ở trẻ nhỏ. Nó kiểm soát không chỉ sự tăng trưởng và có liên quan tới nhiều quy trình trong cơ thể. Nó giúp xử lý protein và làm nâng cao giáng hóa chất béo giúp đem tới năng lượng nhu yếu cho sự nâng cao trưởng các mô.

Hàm lượng hormon tăng trưởng có thể đánh tráo trong ngày và hoạt động thể chất đóng vai trò trong quá trình này. Tập luyện và các hoạt động đơn thuần có thể khiến hàm lượng này tăng tự nhiên. Giấc ngủ, stress và hàm lượng đường huyết thấp cũng làm nâng cao hormon nâng cao trưởng.

Ngay cả những thay đổi nhỏ trong hàm lượng HGH cũng ảnh hưởng đến cơ thể. Quá ít hoặc quá nhiều hormon nâng cao trưởng có thể gây ra những rối loạn nâng cao trưởng nghiêm trọng. Quá ít HGH là 1 trong những nguyên nhân chính gây nên tầm vóc thấp và các tình trạng như còi cọc.

Thiếu HGH thường là do tổn thương tuyến yên hoặc vùng dưới đồi. Các đột biến gen có thể cũng gây thiếu HGH.

Thiếu HGH ở trẻ em

Trẻ bị thiếu HGH thường có kích thước bình thường khi sinh. Một số trẻ không thể sản sinh HGH lúc được sinh ra và vẫn thiếu trong suốt cuộc đời. Ở 1 số trẻ, thiếu HGH là một phần của tình trạng di truyền. Ở nhiều trẻ khác, nguyên do của sự thiếu hụt chưa được làm rõ.

Các rối loạn nâng cao trưởng được tiếp nhân thấy khi trẻ bước vào độ tuổi 2-3. Trẻ có thể bị chậm to hoặc thậm chí không lớn. Các triệu chứng của thiếu hụt HGH ở trẻ là

Nhìn “non nớt” hơn nhiều so với trẻ cùng tuổi

Có thân hình mũm mĩm

Ít tóc

Dậy thì muộn

Thiếu hụt HGH tại người lớn

Ở người lớn, thiếu HGH thường do tổn thương tuyến yên kéo dài. Tổn thương này có thể có hiện tượng khi còn nhỏ hay lúc trưởng thành.

Các rối loạn sản xuất HGH ở tuyến yên cốt yếu là do khối u tuyến yên. Tuyến yên có thể bị tổn thương bởi chính khối u hoặc bởi việc điều trị như phẫu thuật và xạ trị.

Ở người lớn, thiếu HGH có thể dẫn tới 1 số rối loạn khác gồm:

Lo âu và trầm cảm

Tăng mỡ

Tăng nguy cơ bệnh tim và đột quỵ

Yếu tim

Yếu cơ và xương

Mệt mỏi

Giảm khả năng tư duy

Các rối loạn HGH khác

Thiếu hormon nâng cao trưởng cũng có thể là phối hợp của thiếu hụt một hay nhiều hormon. Trẻ cũng có thể bị những bệnh lý cần phải điều trị HGH, gồm:

Hội chứng Turner – phụ nữ với bị hội chứng này kém phát triển đặc tính sinh dục nữ.

Hội chứng Prader Willi – rối loạn di truyền gây yếu cơ, khó ăn uống, kém tăng trưởng và chậm phát triển.

Hội chứng Noonan – Một rối loạn di truyền cản trở sự phát triển thích hợp của nhiều phòng trong cơ thể.

Bệnh thận mạn tính.

Tiêm hormon tăng trưởng là gì?

Phương pháp điều trị phổ biến nhất ở cả người lớn và trẻ em là liệu pháp hormon tăng trưởng sử dụng tiêm HGH

Hormon tăng trưởng có thiết kế để bắt chước HGH tự nhiên trong cơ thể. Nó sẽ được bác sĩ kê đơn. Các liều sẽ được tiêm vài lần mỗi tuần hoặc tiêm hàng ngày phụ thuộc vào độ nghiêm trọng của thiếu hụt.

Điều trị HGH có thể tự thực hiện hoặc dưới sự hỗ trợ của bác sĩ. Điều trị thường kéo dài trong ài năm. Bệnh nhân sẽ tới gặp bác sĩ hàng tháng để kiểm tra.

Các xét nghiệm máu sẽ được thực hiện để xem có cần thêm hormon nâng cao trưởng và xem có cần tăng, giảm hoặc ngừng điều trị. Hàm lượng cholesterol, đường huyết và mật độ xương cũng sẽ được theo dõi.

Dùng hormon tăng trưởng có thể ảnh hưởng đến phản ứng của cơ thể với insulin, kiểm soát hàm lượng đường huyết. Thiếu hormon tăng trưởng có thể cũng dẫn đến nâng cao cholesterol và xương giòn nếu không được điều trị.

Điều tri đặc hiệu cho thiếu hormon tăng trưởng phụ thuộc vào từng người và dựa trên những yếu tố như:

Tuổi tác

Sức khỏe chung và tiền sử bệnh tật

Mức độ bệnh

Khả năng dung nạp điều trị đặc biệt

Kỳ vọng điều trị

Sự tin tưởng lựa chọn của bệnh nhân.

Càng điều trị thiếu HGH sớm ở trẻ, cơ hội phát triển tới chiều cao thông thường lúc trưởng thành càng lớn. Trẻ có thể tăng 10cm hoặc hơn trong 3 năm đầu điều trị, nâng cao khoảng hơn 7cm trong 2 năm tiếp theo. Nhiều người to điều trị HGH suốt đời. Mục tiêu của điều trị hormon tăng trưởng ở người lớn và trẻ em là để phục hồi năng lượng, chuyển hóa và hình dáng cơ thể. Nó có thể giúp giảm mỡ toàn thân, đặc biệt xung quanh vùng bụng

Tiêm HGH cũng có thể nỗ lự sức bền và khả năng chịu đựng gắng sức. Nhiều người thấy nỗ lực tâm trạng và chất lượng sống nói chung.

Nguy cơ và tác dụng phụ của tiêm hormon nâng cao trưởng

Phần to mọi người được điều trị bằng tiêm HGH cũng đều ít gặp vấn đề. Tuy nhiên có một số tác dụng phụ có thể xảy ra, bao gồm:

Đau cơ

Khó chịu tại các khớp

Đau đầu

Sưng tay và chân

Những người có các triệu chứng này hoặc các rối loạn khác cần thông áo với bác sĩ. Họ có thể thay đổi liều nếu thiết yếu để giảm các triệu chứng.

Một số người không nên tiêm HGH. Những đối tượng này bao gồm:

Người có khối u

Bị ung thư,

Mắc bệnh nghiêm trọng

Có rối loạn thở

Đa chấn thương

Ngoài ra, vì hormon nâng cao trưởng có thể ảnh hưởng tới việc dùng insulin trong cơ thể, người bị tiểu đường nên theo dõi đường huyết một cách cẩn thận.

Có thể cần các phương pháp điều trị khác phụ thuộc vào nguyên do gây thiếu hụt HGH. Phẫu thuật hoặc xạ trị có thể cần để điều trị khối u tại tuyến yên. Các hormon tuyến yên cũng có thể cần đến để điều chỉnh tuyến không thể hoạt động bình thường thích hợp.

Quá nhiều hormon tăng trưởng

Tiêm HGH trong tương lai có thể gây ra tình trạng u tuyến yên thể to đầu chi vì người trưởng thành không thể cao hơn lúc dùng hormon nâng cao trưởng tổng hợp. Các liều cao chỉ làm xương dày lên thay vì dài ra.

Những người bị tình trạng này sẽ bị quá phát triển xương đặc biệt là tại tay, chân và mặt. Khu vực da cũng có thể bị ảnh hưởng, trở thành dày, thô và mọc nhiều lông. Dư thừa HGH có thể cũng dẫn đến cao huyết áp và đau tim.

Cách sử dụng khác của tiêm hormon nâng cao trưởng

Tiêm HGH cũng phát triển thành phổ biến trong các ứng dụng phi y tế. Các vận động viên đôi lúc sử dụng chúng để giúp họ có cơ bắp lớn hơn, nhiều năng lượng hơn và tăng cường sức chịu đựng. Tiêm HGH được coi là chất doping và bị cấm trong thể thao chuyên nghiệp.

BS Nhật Nguyệt

(Theo MNT)

Những điều cần biết về vi

Cho đến nay, có tới trên 22 nước tại châu Mỹ đã rải rác có những trường hợp nhiễm bệnh do vi-rút Zika, cho thấy sự lây lan nhanh chóng của nó. Dưới đây là những điều bạn cần biết vào loại vi-rút này:

Các dấu hiệu và triệu chứng

Những người bị nhiễm vi-rút Zika thường bị sốt nhẹ, nổi ban da (phát ban) và viêm kết mạc, đau cơ và khớp, đau đầu. Các triệu chứng này thường nhẹ và kéo dài 2-7 ngày.Hiện nay, các cơ quan y tế đang điều tra vào bệnh do vi-rút Zika để tìm kiếm thêm bằng chứng về mối liên quan giữa vi-rút Zika và tật đầu nhỏ.

Lây truyền

Vi-rút Zika lây truyền sang người qua vết đốt của muỗi Aedes, cốt yếu là Aedes aegypti ở vùng nhiệt đới. Đây cũng chính là loài muỗi lây truyền sốt xuất huyết, bệnh chikyngunya và sốt vàng da.

Chẩn đoán

Vi-rút Zika được chẩn đoán qua PCR (phản ứng chuỗi polymerase) và phân lập vi-rút từ các mẫu máu.Phòng ngừa

Muỗi và nơi sinh sản của chúng là một yếu tố nguy cơ đáng kể lây nhiễm vi-rút Zika.Sử dụng thuốc chống côn trùng, mặc quần áo sáng màu, càng che kín cơ thể càng tốt, sử dụng các dụng cụ bảo vệ như lưới chống muỗi, ngủ trong màn chống muỗiLàm sạch và đậy nắp các vật chứa nước như xô, chậu, thùng …để ngăn chặn muối sinh sản.

Các thuốc trừ sâu theo khuyến cáo của WHO cũng có thể được dùng như thuốc diệt bọ gậy để xử lý những nơi chứa nước lớn.Điều trịBệnh do vi-rút Zika thường khá nhẹ và không cần điều trị đặc hiệu. Những người bị nhiễm vi-rút Zika nên nghỉ ngơi nhiều, uống đủ nước và điều trị đau và sốt bằng các thuốc thông thường. Nếu các triệu chứng nặng lên, cần được chăm sóc y tế ngay lập tức. Hiện nay chưa có vắc xin để phòng hoặc điều trị vi-rút Zika.

BS Cẩm Tú

(Theo Timesofindia)

Trẻ mắc bệnh cận thị do đâu?

Nguyên nhân  gây bệnh cận thị là gì?

Hai nguyên do chính gây bệnh cận thị là do bẩm sinh và mắc phải. Bệnh bẩm sinh do yếu tố di truyền, cha mẹ cận thị thì con cũng bị cận thị. Loại này có đặc điểm là độ cận cao, có thể trên 20 đi ốp, độ cận nâng cao nhanh cả khi đã tại tuổi trưởng thành, có rất nhiều biến chứng như: thoái hóa hắc võng mạc, xuất huyết hoàng điểm, bong hoặc xuất huyết thể pha lê, rách hay bong võng mạc..., khả năng phục hồi thị lực của bệnh nhân kém dù được điều trị. Bệnh cận thị mắc phải thường gặp tại lứa tuổi học sinh, do các em học tập, làm việc, nhìn sắp nhiều trong điều kiện thiếu ánh sáng, mắt không được nghỉ ngơi hợp lý. Đặc điểm là mức độ cận nhẹ hay trung bình dưới 6 đi ốp, bệnh tiến triển chậm, ít nâng cao độ, độ cận thường ổn định đến tuổi trưởng thành, ít bị biến chứng.

Biểu hiện của trẻ bị cận như thế nào?

Người cận thị bị  giảm thị lực, nên muốn phát hiện bệnh cần đo thị lực. Song trước đó phải dựa vào các biểu hiện sau đây để đưa bệnh nhân đi khám mắt: lúc xem tivi trẻ phải  lại gần mới xem được; đọc bài hay bị nhảy hàng hoặc phải dùng ngón tay để dò theo các chữ lúc đọc; ở lớp trẻ phải lại gần bảng mới nhìn được, khi viết nhiều chữ viết sai, thiếu, hoặc phải chép bài của bạn; hay nheo mắt hoặc nghiêng đầu khi nhìn vật tại xa; hay dụi mắt mặc dù trẻ không buồn ngủ; thường kêu mỏi mắt, nhức đầu, hay chảy nước mắt; sợ ánh sáng hoặc bị chói mắt;  không thích các hoạt động phải nhìn xa... Kết quả đo thị lực trẻ bị cận ở một hoặc cả 2 mắt. Cận thị bẩm sinh thường được phát hiện lúc trẻ 1-2 tuổi, độ cận cao và nâng cao độ nhanh bất bình thường. Cận thị mắc phải  tại trẻ em thường xuất hiện ở khoảng 5-6 tuổi.

Chữa trị cận thị ra sao?

      Theo Tổ chức Y tế  Thế giới, có khoảng trên 800 triệu người bị cận thị. Lứa tuổi học sinh (từ 7-16 tuổi) rất dễ mắc chứng cận thị, độ cận thị tiến triển càng nhanh do mức độ làm việc nhìn gần  bằng mắt càng nhiều. Một thống kê cho thấy: số người mắc tật khúc xạ tại Bệnh viện Mắt thành phố Hồ Chí Minh chiếm hơn 30% trong tổng số bệnh nhân đến khám; tỷ lệ bệnh  và mức độ cận cũng tăng lên theo cấp học của học sinh, tỷ lệ cận thị ở học sinh đầu cấp là 18%.

Có nhiều phương pháp điều trị cận thị, phổ biến đặc biệt đeo kính; lắp kính sát tròng; mổ laser. Đeo kính là cách thông dụng, rẻ tiền, dễ áp dụng. Tuỳ theo mức độ cận thị, bệnh nhân cần đeo kính  liên tục hay chỉ cần đeo kính khi nhìn xa. Nếu bệnh nhân cận thị được chỉnh kính đúng thì tiến triển cận thị sẽ chậm lại, không bị nâng cao độ. Tuy nhiên lúc đeo kính, góc nhìn bị thu hẹp, hình ảnh bị thu nhỏ và gây vướng víu cho bệnh nhân. Sử dụng kính sát tròng thì bệnh nhân phải giữ gìn vệ sinh tốt, đeo kính vào sáng sớm và tháo ra buổi tối trước khi ngủ. Không được đeo kính sát tròng khi xuống nước như lúc đi tắm biển. Bệnh nhân đeo kính sát tròng cần được kiểm tra giác mạc 3 tháng một lần, phải ngưng dùng kính ví dụ có bất thường trên giác mạc hoặc có phản ứng của mắt với kính. Đối với bệnh nhân trên 18 tuổi có thể điều trị bằng phương pháp mổ laser. Phẫu thuật này khá phổ biến, chuẩn xác và có hiệu quả cao nhất trong phẫu thuật khúc xạ hiện nay, nhất là sử dụng excimer laser. Ưu điểm là không đau, thời gian phẫu thuật ngắn dưới 10 phút, độ chuẩn xác cao, hơn 90% bệnh nhân trở vào dưới 0,5 đi ốp, phục hồi thị lực nhanh, bệnh nhân nhìn rõ sau mổ 12-24 giờ. Tuy nhiên có thể có những biến chứng trong khi phẫu thuật như rách vạt, đứt vạt giác mạc với tỷ lệ rất thấp dưới 1%, hoặc biến chứng nhiễm khuẩn sau phẫu thuật. Phương pháp đặt thủy tinh thể nhân tạo trong mắt được dùng khi bị cận nặng, có kèm bệnh đục thủy tinh thể. Dùng vật lý trị liệu như luyện tập điều tiết trên máy, dùng sóng siêu âm, điện, điện tử, laser năng lượng thấp có tác dụng làm phục hồi chức năng điều tiết mắt, tăng cường tuần hoàn cơ thể mi, võng mạc, tăng  cường trương lực cơ.

Phòng tránh bệnh và giảm thiểu độ cận bằng cách nào?

Muốn bộ phận tránh bệnh cận thị có hiệu quả cần thực hiện rất tốt các biện pháp sau: Phải đảm bảo đủ ánh sáng trong các bộ phận học, lớp học cho trẻ em. Ánh sáng trong khi học tập, làm việc phải được phân bố đều và có cường độ tốt để không gây lóa mắt. Nên sắp xếp đèn chiếu sáng trong phòng và 1 ngọn đèn bàn đặt phía bên tay trái trên bàn học ở nhà của trẻ. Sách và tài liệu có chữ in rõ ràng trên giấy không quá bóng để tránh bị loá mắt.

Trong lớp nên xếp trẻ cận thị ngồi sắp bảng. Không nên học tập, làm việc bằng mắt liên tục và kéo dài nhiều giờ. Nên cho mắt nghỉ ngơi từ 5 tới 10 phút bằng cách nhắm mắt lại hoặc thư giãn bằng cách nhìn ra xa sau mỗi giờ học. Không nên đọc sách trong bóng tối hoặc ngồi trước máy vi tính quá nhiều sẽ gây mỏi mắt. Hạn chế và giảm những triệu chứng mỏi mệt điều tiết do cận thị gây ra, cần làm việc tại khoảng cách thích hợp, từ mắt đến sách khoảng 30 - 40 cm.

Nghe tiếng khóc đoán bệnh của trẻ

DS. Phan Quốc Đống

Tiếng khóc của trẻ nhất là trẻ chưa biết nói, là một loại ngôn ngữ đặc biệt, mỗi 1 kiểu khóc không như nhau biểu thị một yêu cầu khác nhau. Do đó, các bậc cha mẹ cũng cần phải biết ý nghĩa 1 số tiếng khóc của trẻ, để xử trí cho trẻ hoặc đưa trẻ đi khám bệnh kịp thời nếu đó là biểu hiện của tiếng khóc bệnh lý.

Cần nghe tiếng khóc để xử trí kịp thời. Ảnh: corbis

Cần nghe tiếng khóc để xử trí kịp thời. Ảnh: corbis

 

Cần nghe tiếng khóc để xử trí kịp thời. Ảnh: corbis

 

Cần nghe tiếng khóc để xử trí kịp thời. Ảnh: corbis

Tiếng khóc sinh lý

Tiếng khóc sinh lý biểu thị phản ứng khó chịu đối với môi trường như nóng lạnh, đối với trạng thái cơ thể như đói, khát, buồn ngủ… là 1 vận động có ích cho tất cả cơ thể, làm hoạt động của phổi tăng lên, vận động cơ bắp tay chân phát triển. Một số tiếng khóc sinh lý thường gặp ở trẻ:

1. Khi đói, trẻ khóc với tiếng khóc này sắp như gắn chặt với tiếng khóc kia, hoặc trẻ khóc rồi dừng lại, rồi lại tiếp tục khóc, xen giữa là những động tác mút tay. Nếu sau khi cho bú, 1 thời gian ngắn trẻ lại khóc thì có thể mẹ thiếu sữa, hoặc bú chưa no, hoặc sữa pha nhạt quá.

2. Khi khát trẻ khóc không to như khi đói, ví dụ sử dụng bình sữa cho trẻ ăn, trẻ sẽ không quay đầu đi, mà mút lấy đầu vú sữa, hoặc há miệng ra chờ đợi. Nếu không cho bú kịp thời thì trẻ mới khóc trở lại.

3. Khi buồn ngủ, trẻ khóc ban đầu tương đối thấp, nếu xung quanh ồn ào quá không ngủ được thì trẻ sẽ khóc lớn hơn, liên tục. Chỉ cần ôm ấp vỗ về trẻ sẽ ngừng khóc và ngủ.

4. Khi trẻ làm nũng, trẻ khóc lúc cao, lúc thấp, có thể không có nước mắt, chân tay múa máy lung tung, mắt nhìn sang trái sang phải. Khi đó bế ẵm và vỗ về trẻ.

5. Khi trẻ hoảng sợ, do tiếng động, ánh sáng, đêm tối… trẻ khóc thét lên, toàn thân dãy dụa lung tung. Trẻ bị kẹp cũng khóc thét và dãy dụa như vậy.

6. Khi đái dầm, nách bẹn bị hăm… trẻ khóc bình thường, không có gì đặc biệt, đôi lúc thét lớn lên, nước mắt dàn dụa.

7. Ngoài ra trẻ còn khóc, làm nũng vào đêm, có thể về đêm trẻ đói, khát, hoặc nhiệt độ trong phòng nóng lạnh quá, hoặc ban ngày trẻ đùa nghịch quá mức bị hưng phấn làm giấc ngủ xáo trộn, hoặc bực bội khó chịu, ngứa ngáy, đã gây quấy khóc.

Tiếng khóc bệnh lý

Tiếng khóc bệnh lý là tiếng khóc lúc trẻ đau đớn hay trong người có gì trục trặc, rối loạn khó chịu, có thể phân biệt như sau:

1. Trẻ khóc từng cơn, kèm theo nôn mửa, đại nhân thể phân lẫn máu, là trẻ có khả năng lồng ruột.

2. Trẻ khóc thét liên tục, thỉnh thoảng ngừng 1 lát, rồi lại tiếp tục,

kèm theo nôn mửa là trẻ có khả năng có bệnh ở não hay màng não.

3. Trẻ khóc thét, không nhanh, không chậm, đều đều, sắc mặt trắng nhợt, vã mồ hôi, nôn mửa, tiêu chảy, không cho sờ vào bụng, nếu như sờ vào thì khóc lớn hơn là trẻ có khả năng viêm ruột cấp, tiêu hóa trục trặc, ký sinh trùng (giun) hoành hành.

4. Trẻ khóc giọng khàn khàn, khóc liên tục, đặc biệt về đêm, khó thở, kèm theo sốt bỏ bú là trẻ có khả năng bị viêm amidan cấp.

5. Trẻ khóc với âm điệu bình thường, trẻ tại trạng thái không yên, dỗ

thế nào cũng không nín, đó là trẻ bị đau đầu, ngạt mũi, cảm cúm.

6. Trẻ khóc xong lại thở khò khè là trẻ có khả năng viêm phổi.

7. Trẻ khóc yếu ớt, xen lẫn tiếng rên gián đoạn là trẻ có khả năng viêm phổi và suy tim, phải theo dõi sát sao.

8. Trẻ khóc không yên, kèm theo sốt, lắc đầu, vò tai, lấy tay ép về vành tai lại càng khóc dữ dội là trẻ có khả năng viêm tai giữa.

9. Trẻ khóc suốt đêm, sợ hãi, vã mồ hôi nhiều là trẻ có khả năng bị còi xương giai đoạn đầu.

10. Trẻ khóc trước lúc ngủ là thường trẻ bị giun kim, ở cửa hậu môn bò ra, gây ngứa ngáy, khó chịu.

11. Trẻ khóc lúc đi tiểu nhân thể thường là trẻ bị viêm đường tiểu, có thể thấy miệng niệu đạo nhiễm trùng, tấy đỏ.

12. Trẻ khóc, không chịu bú, hễ ngậm vú thì khóc là trẻ có khả năng

niêm mạc lợi bị sưng, viêm miệng, nên không bú được.

13. Trẻ khóc dữ dội, luôn tay quờ quạng, vơ nắm mọi vật để ôm về người là trẻ có khả năng bị mọc mụn, do ẩm nóng, gây ngứa ngáy, khó chịu.

14. Trẻ khóc sau khi đi đại luôn thể thường là trẻ bị rạn nứt hậu môn.

(DS. Phan Quốc Đống)