Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2000

Bệnh màng trong ở trẻ sơ sinh

Biểu hiện bệnh màng trong

Bệnh có hiện tượng vài phút tới hai giờ sau khi sinh với hội chứng suy hô hấp nặng mà không tìm thấy các nguyên nhân như nhiễm khuẩn, ngạt nước ối, hít phải phân su. Bệnh diễn tả là khó thở nhanh nông, nhịp thở trên 60 lần/phút. Các khoang liên sườn, hõm trên ức, co kéo, cánh mũi phập phồng, toàn thân tím tái. Cho thở oxy không đỡ. Khám phổi thấy tiếng rì rào phế nang giảm, có ran ở đáy phổi. Chụp X-quang phổi thông thường hoặc trảo đổi nhanh là tổn thương mờ hai phổi, nên chụp phổi nhiều lần để so sánh. Nếu nhẹ và điều trị đúng thì sau 72 giờ các triệu chứng giảm, dần dần bệnh thoái lui. Nếu nặng, các dấu hiệu tím tái, khó thở nâng cao lên, huyết áp hạ, thân nhiệt hạ, trẻ sẽ tử vong sau vài giờ. Nếu may mắn thoát, sau khi khỏi có thể để lại các di chứng như thiếu oxy não, xuất huyết não, hạ đường huyết… Trẻ đủ tháng phục hồi tốt và tỷ lệ tử vong ít hơn trẻ thiếu tháng.

Surfactant làm giãn nở phế quản.

Sự hình thành màng trong

 

Ở phổi người bình thường, bên trong phế nang có chứa 1 chất Surfactant còn gọi là chất giảm hoạt bề mặt (GHBM) hay chất diện hoạt, có tác dụng giúp cho các phế nang không bị xẹp. Chất GHBM tại phổi bào thai xuất hiện tương đối vào tuần thứ 20. Nó phủ vách trong của phế nang và có trong nước ối vào tuần thứ 28-36. Ở trẻ sinh non, phổi chưa trưởng thành, chất GHBM thiếu cả vào lượng và chất, nên phế nang bị xẹp, huyết tương tràn về phế nang, chất fibrin của huyết tương lắng đọng phía trong của các phế nang và các tiểu phế quản, tạo thành 1 lớp màng, gọi là màng trong. Nhìn qua kính hiển vi thấy một màng màu hồng, acid, trên màng có hồng cầu, sợi fibrin và 1 số mảnh vụn tế bào. Màng này cản trở sự lưu thông khí và sự trao đổi oxy, CO2 từ phế nang qua các mao mạch. Đưa tới dấu hiệu suy hô hấp và tử vong rất nhanh.

Yếu tố dễ dàng gây bệnh màng trong

Trẻ sinh non dưới 28 tuần, tỷ lệ mắc bệnh màng trong là 50-60%, đặc biệt cân nặng của trẻ dưới 1.000g hoặc trẻ sinh đôi.

Trong thời gian chuyển dạ, mẹ chuyển dạ lâu, băng huyết, thai bị suy cấp hoặc sinh ra bị ngạt.

Trong thời kỳ có thai mẹ bị bệnh đái tháo đường hoặc điều trị một bệnh nào đó bằng corticoide kéo dài.

Yếu tố gen di truyền

Chẩn đoán bệnh màng trong

Chẩn đoán sớm: Định lượng chất GHBM trong nước ối. Tỷ lệ hai chất lecithin/sphingomyelin (L/S). Bình thường L/S > 2. Nếu L/S < 2 thì trẻ sơ sinh có nguy cơ mắc bệnh màng trong.

Trẻ sau sinh: Nếu L/S < hai và có các biểu hiện suy hô hấp cấp. Đo khí máu PaO2 giảm, PaCO2 tăng, có biến đổi X-quang phổi, thì chẩn đoán là trẻ bị bệnh màng trong.

Điều trị

Đặt trẻ trong lồng ấp 36o5-37o.

Truyền glucose, đạm mỡ, bicarbonat.

Hô hấp hỗ trợ.

Nhỏ giọt dung dịch surfactant qua ống nội khí quản về phổi trẻ.

Dự phòng

Đối với mẹ: Điều trị tốt bệnh đái tháo đường, không lạm dụng chất corticoide chỉ cần khoảng mang thai. Xác định tỷ lệ L/S trong nước ối để tiên lượng nguy cơ trẻ bị bệnh màng trong.

Với trẻ sinh non, thiếu tháng, cân nhẹ, nên chủ động bơm chất surfactant vào phổi qua ống nội khí quản để phòng tránh bệnh màng trong.

 

TS. Đào Kỳ Hưng

0 nhận xét:

Đăng nhận xét