Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2000

Viêm ruột hoại tử cấp tính ở trẻ em và cách phòng ngừa

Trẻ bị viêm ruột hoại tử có thể bị các biến chứng như: thủng ruột, viêm phúc mạc, tắc ruột dẫn tới tử vong.

Viêm ruột hoại tử là 1 cấp cứu nội khoa và ngoại khoa đường tiêu hóa thường gặp nhất ở trẻ sơ sinh non tháng. Ngay với trẻ sinh đủ tháng cũng có thể mắc bệnh này nhưng tỷ lệ ít hơn. Bệnh viêm ruột hoại tử cấp tính tại trẻ em gặp nhiều về mùa hè và mùa thu. Các dấu hiệu của bệnh là:

Đau bụng: Trẻ mắc bệnh mới đầu đau bụng nhẹ, sau đó nặng dần và kéo dài, dữ dội từng cơn. Thường đau tại quanh rốn hoặc vùng bụng trên.

Nôn: Sau khi có hiện tượng đau bụng khá lâu, trẻ có thể buồn nôn. Thứ nôn ra là chất hòa tan trong dạ dày, có thể chứa mật gan, nặng có thể nôn ra chất giống màu như cafe.

Dấu hiệu vùng bụng: Vùng bụng của trẻ mắc bệnh thời kỳ đầu mức nhẹ là trướng hơi, mềm, có thể đau nhẹ, nhưng không có điểm đau nhất định. Cùng với trướng bụng, sau đó có thể có hiện tượng điểm đau nhất định. Lớp cơ thành ruột thời kỳ cuối hoại tử chảy máu, chức năng vận động đường ruột trở ngại dẫn tới ruột tê liệt, tiếng kêu của ruột giảm hoặc mất hẳn. Khi ruột hoại tử mạnh hơn hoặc ruột thủng lỗ, có hiện tượng triệu chứng viêm màng bụng, khi đó đau bụng dữ dội, trướng bụng rõ rệt, cơ bụng tăng, đau ép và đau quặn người, đây là dấu hiệu bệnh rất nặng.

Đi ngoài và đại luôn thể ra máu: Sau khi đau bụng khá lâu, xuất hiện đi ngoài, phân loãng màu vàng hoặc giống canh trứng, số lần không ổn định. Sau đó niêm mạc chảy máu, hoại tử chuyển thành phân có máu, có màu đỏ sẫm dạng sánh hoặc dạng canh màu đỗ đỏ, có lúc có chất hoại tử màu trắng xám, mùi hôi, rất tanh, có thể có ít dịch nhờn, không mủ. Nếu bệnh nhẹ, niêm mạc ruột hoại tử chảy máu ít, vì thế phân không thấy có máu, nhưng phân tích máu ẩn trong phân cho thấy dương tính cao.

Mất nước và mất máu: Khi bệnh tiến triển nặng dần, thường phát sinh mất nước, dung lượng máu giảm, natri thấp, kali thấp và trúng độc axit, khiến bệnh hiểm nguy hơn.

Triệu chứng nhiễm độc trong máu: Do sự hấp thụ của thành ruột hoại tử và chất độc, gần như trẻ em mắc bệnh ban đầu bị sốt, tinh thần sa sút bất an hoặc thèm ngủ, sắc mặt nhợt nhạt. Bệnh nặng lên nhanh chóng, thường từ 1-2 ngày sau khi phát bệnh, xuất hiện triệu chứng độc trong máu nghiêm trọng và ngất, nếu không kịp thời cấp cứu người bệnh rất nhanh tử vong.

Các yếu tố và nguyên nhân gây bệnh

Nhiều nhân tố như thiếu máu cục bộ đường tiêu hóa hoặc tổn thương tái tưới máu, nhân tố nhiễm trùng. Có bằng chứng về sự phát tán vi khuẩn về máu gây nên triệu chứng toàn thể. Biểu hiện ban đầu không đặc hiệu. Biểu hiện vào sau nằm trong bối cảnh bệnh nặng giống nhiễm trùng và hội chứng đáp ứng viêm hệ thống. Viêm ruột hoại tử sơ sinh thường gặp tại trẻ non tháng, cân nặng thấp. Bệnh liên quan tới nhiều vấn đề: nuôi dưỡng đường ruột; trẻ suy hô hấp kéo dài, giảm lưu lượng máu tại hệ thống tạng (ngạt, đa hồng cầu), trong bệnh nhiễm trùng, bệnh tim bẩm sinh, bất thường chuyển hóa hoặc có quy trình phát triển bào thai bất thường.

Bệnh xảy ra như thế nào?

Viêm ruột hoại tử là một bệnh đường ruột cấp tính, nó có thể phá hủy các mô của niêm mạc ruột. Khi trẻ non tháng sinh ra, cơ thể yếu, các cơ quan có thể chưa hoàn thiện, bởi vậy trẻ dễ bị suy hô hấp sau sinh. Cho trẻ ăn sữa ngoài không đúng cách, số lượng sữa nâng cao nhanh, vi khuẩn hoặc các virut xâm nhập về đường ruột tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp gây bệnh, tổn thương thường khu trú ở ruột non nhất là đoạn hỗng tràng. Tổn thương có thể từ vài centimét đến suốt cả chiều dài ruột non. Tổn thương vi thể dưới dạng phù nề, xuất huyết, hoại tử, có thâm nhập bạch cầu đa nhân. Dẫn đến các biến chứng: thủng ruột, viêm phúc mạc, tắc ruột.

Thông thường, bệnh xuất hiện khi trẻ đang được cho ăn qua đường miệng với tiến triển tốt. Biểu hiện ban đầu hay gặp đặc biệt sự kém dung nạp thức ăn, trẻ có những biểu hiện khác thường. Ứ trệ dịch dạ dày là triệu chứng sớm. Tuy nhiên, đôi lúc bệnh cũng khởi phát rầm rộ, đột ngột bằng dấu hiệu suy sụp tuần hoàn.

Dấu hiệu điển hình: triệu chứng tiêu hóa và toàn thân nặng. Triệu chứng tiêu hóa: ọc sữa, tiêu phân đen, vàng da, bụng trướng. Triệu chứng toàn thân: trẻ lờ đờ bỏ bú, suy kiệt. Trong trường hợp bệnh nặng có thể có xuất huyết dưới da.

Chẩn đoán viêm ruột hoại tử tại trẻ dựa vào chất nôn, dịch dạ dày và phân của trẻ. Trẻ bị viêm ruột hoại tử sẽ được nuôi dưỡng tĩnh mạch hoàn toàn, theo dõi lâm sàng bằng hút dịch dạ dày, nếu như dịch dạ dày trong sẽ bắt đầu tập cho ăn trở lại với tốc độ không được vượt quá 20ml/kg/ngày. Khi nghi ngờ mắc bệnh này phải ngừng cho trẻ ăn, song song nhanh nhất đưa bệnh nhân tới bệnh viện chữa trị. Khi cần có thể xem xét tới phương pháp phẫu thuật ngoại khoa, cắt bỏ đoạn ruột bị bệnh, cứu tính mạng của trẻ.

Biện pháp dự phòng

Cần có chiến lược cụ thể về điều trị và chăm sóc chu đáo, nhằm giúp cho thai nhi chỉ mất khoảng tại trong bụng mẹ có sức khỏe rất tốt và phát triển phù hợp với từng giai đoạn bào thai, tránh để xảy ra tình trạng sinh non tháng.

Bé sinh ra dù nhẹ cân, thiếu tháng hay đủ tháng nhất thiết phải được bú sữa mẹ ngay những giờ đầu sau sinh, khuyến khích các bà mẹ cách cho con bú sữa mẹ hoàn toàn ngày - đêm. Để có được nguồn sữa mẹ dồi dào, các bà mẹ cần ăn đầy đủ dinh dưỡng, chú trọng nhất là chất đạm ăn tăng hơn 60% so với bữa ăn hàng ngày vào đạm, đồng thời phải được nghỉ ngơi, ngủ đủ giấc. Khi mẹ ngủ, đó là lúc thời gian các tuyến sữa tiết sữa nhiều nhất.

Để phòng bệnh viêm ruột hoại tử cho trẻ cần giảm tối đa các nguy cơ khác liên quan đến sản khoa: sinh ngạt, suy hô hấp sau sinh. Cho trẻ bú sữa mẹ sớm vì sữa mẹ là sữa duy nhất làm giảm nguy cơ viêm ruột hoại tử nhất là trẻ đẻ non tháng. Cho trẻ đẻ non ăn từ từ từng bữa lượng nhỏ điều chỉnh rất tốt thời gian và số lượng cho bữa ăn tăng dần không quá 20ml/kg/ngày.

BS. Lê Anh

0 nhận xét:

Đăng nhận xét